Quản lý bùn thải ở Việt Nam: Những thách thức và đề xuất các giải pháp
Hội nghị do Hiệp hội nước quốc tế (IWA),Tổ chức sáng kiến Thành phố thông thái (World Smart Capital Initiative-WSCI), Bộ Xây dựng, Hội cấp thoát nước Việt Nam(VWSA), Viện Khoa học và kỹ thuật Môi trường(IEESSE)-Trường Đại học Xây dựng Hà Nội tổ chức.
Những thách thức
Tốc độ đô thị hóa nhanh và sự phát triển nhanh chóng của các đô thị đang là sức ép to lớn lên cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị đặc biệt hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, hệ thống đô thị Việt Nam hiện có 774 đô thị, tăng 04 đô thị so với cuối năm 2013; trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 21 đô thị loại II, 42 đô thị loại III, 65 đô thị loại IV và 629 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa trung bình cả nước dự kiến đạt khoảng 34,5 %. Đô thị hóa tăng nhanh ở khu vực các đô thị lớn, lan tỏa và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị cũ được cải tạo, nâng cấp, phát triển mở rộng về quy mô đất đai, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Đô thị đã khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Tính riêng 5 đô thị trực thuộc trung ương năm 2014 đã đóng góp khoảng 52,6% GDP cả nước, toàn bộ 774 đô thị đã đóng góp khoảng 72% GDP của cả nước.
Với sự phát triển nhanh chóng và sự đóng góp to lớn của khu vực đô thị trong sự phát triển chung của cả nước nhưng tốc độ đô thị hóa nhanh, hệ thống đô thị phát triển “quá nóng”, mặc dù hệ thống thóat nước đô thị đã được quan tâm đầu tư nhưng không đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ngập úng đô thị, nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra nguồn tiếp nhận gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước cấp sinh hoạt đang diễn ra trầm trọng. Hầu hết các đô thị đều đã có mạng lưới thu gom nước chung (nước mưa và nước thải) nhưng mạng lưới này cũng đã và đang bị xuống cấp, khả năng thu gom và tiêu thoát còn nhiều hạn chế và cho đến nay cũng chỉ có khoảng trên 20 đô thị có trạm/nhà máy xử lý nước thải tập trung và sử dụng công nghệ xử lý nước thải khác nhau đã và đang đưa vào vận hành khai thác.
Tại các đô thị Việt Nam hiện nay, phần lớn các hộ gia đình sử dụng hệ thống vệ sinh tại chỗ và chủ yếu là các bể tự hoại, trong một số khu vực hay trên một số đường phố có bố trí các nhà vệ sinh công cộng. Phần lớn nước thải được xả vào hệ thống thoát nước công cộng, còn bùn thải từ các công trình vệ sinh này được thông hút, thu gom và vận chuyển chưa qua xử lý đổ thẳng ra mương, hồ hoặc bãi chôn lấp cùng với các loại rác thải đô thị. Bên cạnh đó việc quản lý bùn thải từ các công trình này chưa được quan tâm đúng mức và hiện nay chưa có đô thị nào có biện pháp quản lý và xử lý phù hợp. Bùn thải từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh trong đô thị nếu không được quản lý đúng quy định sẽ tác động tiêu cực đến sức khỏe của cộng đồng, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái và cảnh quan đô thị.
Quy hoạch đô thị, quy hoạch thoát nước và quy hoạch xử lý chất thải chưa thực sự quan tâm đến việc thu gom, vận chuyển cũng như việc xác định các vị trí, địa điểm xử lý bùn thải từ hệ thông thoát nước và các công trình vệ sinh. Cho đến nay 60/63 tỉnh đã phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng tỉnh; 100% đô thị có quy hoạch chung được duyệt; gần 95% số xã có quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Các thành phố trực thuộc trung ương đã và đang lập quy hoạch xây dựng chuyên ngành về thoát nước và xử lý chất thải rắn; quy hoạch thoát nước và xử lý chất thải rắn của 4 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc bộ, Trung bộ, Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long) và 3 vùng lưu vực sông (lưu vực sông Cầu; lưu vực sông Nhuệ - Đáy và lưu vực sông Đồng Nai) cũng đã lập và được phê duyệt.
Tuy nhiên việc tổng hợp, phân tích và đánh giá hiện trạng về khối lượng bùn thải, công tác thu gom, vận chuyển; dự báo khối lượng bùn thải phát sinh từ hệ thống thóat nước và công trình vệ sinh còn thiếu; việc xác định vị trí, quy mô và địa điểm xử lý bùn thải hầu như chưa có và nếu có cũng chưa kết hợp với việc xử lý chất thải rắn; công nghệ xử lý chưa được khuyến cáo trong các quy hoạch này. Việc thiếu quy hoạch các khu vực đổ, xả và xử lý đang là những khó khăn trong thực tế triển khai hiện nay.
Đối với đầu tư xây dựng, triển khai các dự án thí điểm trong những năm gần đây, mặc dù đầu tư vào lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải đắt hơn nhiều lần so với cấp nước nhưng với sự quan tâm của Chính phủ và các địa phương, sự hỗ trợ, tài trợ của các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới đến nay hầu hết các đô thị tỉnh lỵ ở Việt Nam đều có dự án thoát nước và vệ sinh môi trường với quy mô khác nhau. Nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải tại nhiều đô thị đã hoàn thành và đi vào hoạt động.
Cho đến nay đã có 30 nhà máy xử lý nước tập trung với công suất đạt khoảng 800.000m3/ngày đêm đi vào hoạt động (trong đó có nhà máy với công suất rất lớn đã đi vào hoạt động như nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng – TP.HCM công suất 141.000m3/ngày đêm hoặc nhà máy xử lý nước thải tại Yên Sở - Hà Nội, công suất 200.000m3/ngày đêm). Từ nay đến năm 2020 sẽ tiếp tục có khoảng hơn 30 nhà máy xử lý nước thải tập trung được đầu tư xây dựng hoặc đưa vào sử dụng. Việc quan tâm đầu tư nhà máy xử lý nước thải cùng với mạng lưới thu gom nước thải tại các đô thị đã góp phần giảm ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi trường ....
Tuy nhiên việc đầu tư chủ yếu tập trung vào công trình đầu mối (trạm/nhà máy xử lý nước thải), việc xây dựng mạng thu gom còn chậm. Phần lớn các dự án thiếu phần đầu tư cho việc thu gom, xử lý bùn thải từ mạng lưới thu gom cũng như bùn cạn từ nhà máy xử lý nước thải chính vì vậy có nhà máy đi vào hoạt động xong công tác xử lý bùn cạn gặp rất nhiều khó khăn thậm chí gây ô nhiễm môi trường (ví dụ như nhà máy xử lý nước thải công suất 141.000m3/ngày đêm tại Bình Hưng TP. Hồ Chí Minh với lượng bùn cạn phát sinh khoảng 34 tấn/ngày chủ yếu thực hiện ủ lên men, trộn trấu và đem đi chôn lấp. Từ năm 2012 đến nay nhà máy đã có nhiều nỗ lực để khắc phục mùi hôi, kết quả quan trắc nồng độ mùi hôi phát tán đạt tiêu chuẩn cho phép nhưng người dân vẫn phản ảnh vẫn còn mùi hôi...). Cũng trong khuôn khổ của nhiều dự án ODA, đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng thí điểm về xử lý bùn thải từ các công trình vệ sinh (bể tự hoại..) ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Đinh, TP.Hồ Chí Minh có thu được kết quả bước đầu, tuy nhiên việc nhân rộng hoặc duy trì kết quả còn nhiều hạn chế.
Về thu gom, vận chuyển bùn thải từ hệ thống thoát nước và công trình vệ sinh. Bùn thải từ hệ thống thoát nước và công trình vệ sinh bao gồm: Bùn thải từ mạng lưới thoát nước thải sinh hoạt; nước thải công nghiệp; từ nạo vét kênh, mương, rạch hoặc sông theo định kỳ; từ các bể tự hoại; từ nhà máy xử nước thải... Thành phần của các loại bùn thải rất khác nhau ví dụ: Bùn thải từ mạng lưới thoát nước và bùn nạo vét kênh rạch chứa chủ yếu là cát và đất trong khi bùn thải từ các trạm/nhà máy xử lý nước thải và từ bể tự hoại chứa chủ yếu là các chất hữu cơ. Hiện nay, bùn thải từ hoạt động nạo vét cống rãnh, kênh rạch và bùn bể tự hoại được vận chuyển bằng xe chuyên dụng và xà lan (bùn nạo vét kênh rạch). Bùn thải từ các trạm/nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt/đô thị tập trung sau khi tách nước (làm khô) được vận chuyển đến các bãi chôn lấp.
Công tác nạo vét bùn từ mạng lưới thoát nước nhiều đô thị vừa và nhỏ vẫn còn sử dụng phương pháp thủ công, nhiều đô thị lớn bước đầu sử dụng cơ giới hóa. Phương pháp thủ công có năng suất thấp, không an toàn và gây nguy hại đến sức khỏe công nhân thoát nước.
Do đặc điểm các đô thị Việt Nam là đô thị cũ, đô thị cải tạo và mở rộng; cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế trong khi đó mật độ dân số cao. Việc thông hút, vận tải bùn từ bể tự hoại của các hộ dân cực kỳ khó khăn (khó tiếp cận) mặt khác phương tiện hút và vận chuyển cũ, thiếu thốn không đảm bảo vệ sinh môi trường và không phù hợp với điều kiện hạ tầng kỹ thuật.
Về công nghệ xử lý bùn thải, hiện nay trên thế giới đang sử dụng nhiều công nghệ để xử lý bùn thải. Việc xử lý kết hợp bùn thải từ bể tự hoại với bùn thải từ hệ thống thoát nước cũng đã và đang thực hiện ở một số nước châu Á, châu Phi hoặc tại một số nước phát triển toàn bộ chất thải bỏ từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh được tập trung về nhà máy xử lý nước thải để xử lý. Tuy nhiên việc xây dựng và vận hành hệ thống xử lý này tốn kém và yêu cầu trình độ quản lý cao. Ở Việt nam bước đầu đã áp dụng một số công nghệ xử lý bùn thải chi phí thấp. Nhiều sản phẩm được sản xuất ra từ bùn thải ví dụ sử dụng làm vật liệu xây dựng, sử dụng trong nông nghiệp và trồng trọt (phân bón), ngoài ra việc tái sử dụng bùn thải nhằm tiết kiệm năng lượng được tận thu từ quá trình xử lý bùn thải cũng đang được quan tâm…. tuy nhiên việc lựa chọn công nghệ nào cho phù hợp, các sản phẩm sản xuất từ bùn thải phải đáp ứng các yêu cầu gì, tuân thủ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nào và chi phí xử lý là bao nhiêu hiện đang còn để ngỏ?
Quản lý nhà nước về bùn thải từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh. Về văn bản quy pháp pháp luật trong thời gian qua, một số văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như Luật Bảo vệ môi trường 2014 có hiệu lực từ 1/1/2015 và các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường và quy chuẩn xây dựng có liên quan đến việc phân loại và quản lý bùn thải bao gồm: QCVN 07: 2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại, trong đó có những quy định được áp dụng với bùn thải; QCVN 25:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải bãi chôn lấp chất thải rắn; QCVN 50:2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng nguy hại đối với bùn thải từ quá trình xử lý nước; QCVN 07:2011/BXD – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hạ tầng kỹ thuật đô thị;TCVN 5298 – 1995: Các yêu cầu chung đối với việc sử dụng nước thải và bùn lắng của chúng để tưới và làm phân bón.....
Đặc biệt trong Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 của Chính phủ về Thoát nước và xử lý nước thải đã có một số điều quy định chi tiết về quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước; quản lý bùn thải từ bể tự hoại cũng như các quy định về tái sử dụng bùn thải. Đây là văn bản pháp lý quan trọng để quản lý lĩnh vực này. Tuy nhiên nhiều vấn đề còn thiếu cần phải được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện đó là: Cụ thể hóa các tiêu chí lựa chọn công nghệ xử lý bùn thải; Các quy chuẩn ký thuật liên quan trực tiếp đến bùn thải (kể cả sản phẩm được sản xuất, tái sử dụng bùn thải…); Các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ....; Các chỉ tiêu và các định mức kinh tế, kỹ thuật cho thu gom, vận chuyển, xử lý bùn thải; Các vấn đề liên quan đến đầu tư, tài chính (giá xử lý, chi phí quản lý, khai thác, vận hành…).
Về tổ chức, bộ máy, hiện nay việc quản lý các hoạt động thoát nước và xử lý nước thải được thống nhất là Bộ Xây dựng; quản lý chất thải và phế liệu do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì và có sự phối hợp với các Bộ, ngành. Tại các địa phương tham gia quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh gồm có các Sở: Xây dựng; Tài nguyên và Môi trường; Giao thông vận tải. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thoát nước và môi trường tại các địa phương bao gồm: Các Công ty trách nhiệm một thành viên thoát nước và phát triển đô thị; Các công ty môi trường đô thị ....
Ngoài các doanh nghiệp thoát nước và môi trường đô thị hiện nay ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh có rất nhiều đơn vị tư nhân tham gia vào dịch vụ thông hút bùn từ bể tự hoại. Các doanh nghiệp nhà nước có thế mạnh là được trang bị các phương tiện chuyên dùng có công suất và dung tích lớn, chi phí thấp hơn nhưng hạn chế là chất lượng dịch vụ trong khi đó các đơn vị tư nhân có các phương tiện nhỏ, linh hoạt, cơ động chất lượng dịch vụ cao hơn và đi kèm chi phí cao hơn việc chấp hành các quy định về đổ, xả và xử lý của các đơn vị này (thường đổ trực tiếp ra môi trường) đang là một vấn đề cần được kiểm soát chặt chẽ.
Các giải pháp
Rà soát, cập nhật và ban hành mới các quy định có liên quan đến quản lý chất thải đặc biệt bùn thải từ hệ thống thoát nước và công trình vệ sinh bao gồm các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, tài chính; quản lý xây dựng; ứng dụng công nghệ mới; chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật; định mức đơn giá; các chi phí... đến các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; các sổ tay hướng dẫn thực hiện.
Rà soát, bổ sung nội dung quản lý bùn thải trong các quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng vùng và các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật đặc biệt trong quy hoạch thoát nước; quy hoạch xử lý chất thải rắn.
Nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong xử lý bùn thải hướng tới giảm tối đa việc chôn lấp kết hợp yếu tố môi trường và kinh tế để đưa ra các công nghệ thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao những vẫn bảo vệ môi trường.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về bùn thải: Điều tra, thu thập số liệu về bùn thải phát sinh trong đó làm rõ loại bùn thải cần phải xử lý; bùn thải có khả năng tái chế, tái sử dụng... Xây dựng các chính sách huy động các nguồn lực tham gia đầu tư, quản lý vận hành việc thu gom, vận chuyển và xử lý bùn thải. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở xử lý chất thải theo quy hoạch đã được phê duyệt. Sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đảm bảo tổ chức bộ máy gọn nhẹ, trang thiết bị hiện đại, cơ động linh hoạt, hoạt động có hiệu quả với chí phí thấp. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng trong ý thức chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và có sự phối hợp trong quản lý chất thải. Tăng và mở rộng công tác hợp tác quốc tế trong đầu tư, xây dựng, ứng dụng công nghệ và trao đổi học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý bùn thải.
Quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và các ông trình vệ sinh vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Hội nghị quôc tế về “Quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và công trình vệ sinh lần thứ 3” được tổ chức tại Hà Nội, đây là cơ hội cho các nhà quản lý, nhà khoa học, tư vấn và doanh nghiệp ở Việt Nam có dịp tiếp cận, trao đổi học hỏi những kinh nghiệm trong nghiên cứu, quản lý và ứng dụng công nghệ mới qua đó tìm được phương pháp, giải pháp quản lý bùn thải có hiệu quả nói chung và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam nói riêng.
PGS.TS. Nguyễn Hồng Tiến
Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật - Bộ Xây dựng
Viết bình luận
Bạn đã gửi bình luận thành công. Xin cảm ơn!